Mỗi lần, trước khi hành lễ ở các chùa, vị
chủ lễ thường chắp tay cầm ba nén nhang dâng lên trên trán và đọc thầm bài kệ
niệm hương: Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, phưởng phất khắp
mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo, Thệ trọn đời giữ đạo, theo tự tánh làm
lành, cùng pháp giới chúng sanh, cầu Phật từ gia hộ, tâm bồ đề kiên cố, xa bể
khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác. Và chúng ta cũng thường nghe những vần thơ
như : lặng lẽ chiên đàn tỏa khói hương, đỉnh trầm xông ngát ý thiền môn, lung
linh nến ngọc ngời sao điểm, xóa sạch trần gian hết tủi hờn...những vần thơ này
đã giới thiệu về những nét đẹp văn hóa của sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt tâm
linh và cho chúng ta thấy nghi thức dâng hương là nét văn hóa rất đẹp trong
nghi lễ thiền môn.
Tại các tư gia quý Phật tử, việc thắp
hương cúng Phật, dâng hương lên bàn thờ ông bà, tổ tiên trong các ngày lễ, ngày
giỗ chạp cũng không thể thiếu được. Những
người không theo đạo Phật, họ vẫn thắp nhang để tỏ lòng thành kính với ông bà tổ
tiên, trong các lễ tiết như tết nguyên đán, trong những ngày sóc vọng ...
tuc-dang-huong-bai
Những điều này đã cho chúng ta thấy dâng
hương là một trong những tập tục truyền thống lâu đời trong văn hóa sinh hoạt
tín ngưỡng của người Việt nam. Cho dù dòng đời có những thay đổi, cuộc sống có
những biến thiên nhưng tập tục dâng hương không bao giờ mất đi, trái lại nó
càng mở rộng ở Đình làng Miếu vũ cho đến việc thực thi lễ dâng hương tại các
nghĩa trang liệt sĩ để tỏ lòng biết ơn, ghi nhớ công lao của những anh hùng,
chiến sinh, anh linh đã hy sinh vì nước vì dân. Tập tục dâng hương là một trong
những nét văn hóa đẹp trong nếp sống sinh hoạt tâm linh cho nên chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm đến.
Thưa quý vị khi trình bày đề tài này,
tôi biết trong quý vị sẽ có người bảo rằng: Thắp nhang, đốt hương là một việc
làm rất bình thường có gì là quan trọng phải để tâm suy nghĩ, luận bàn? Xin
thưa rằng: Dâng hương không chỉ có nghĩa là đốt hương, thắp nhang mà nó còn
mang cả một văn hóa và đạo lý, cao hơn nữa nó còn mang ý nghĩa của một quan niệm
triết lý vũ trụ và nhân sinh. Nó không phải là một động tác thắp nhang, đốt
hương mà nó đã trở thành một tập tục dâng hương có nghi thức, có luật tắc rõ
ràng.
Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt
của Minh Tâm - Thanh Nghị :Hương là mùi thơm, vật đốt cho thơm khi cúng, khi
nguyện v.v... (Lò trong ngát dạ, đỉnh ngoài bay hương (Nhị độ Mai). Theo Từ điển
Phật học Huệ Quang: Hương liệu được tinh luyện từ dầu của những loại cỏ hoặc gỗ
thơm, gồm các loại như Chiên đàn hương,
Trầm thủy hương, Đinh tử hương, Uất kim hương, Long não hương. Năm thứ hương
này Mật giáo thường sử dụng trong lúc lập đàn. Nếu phân biệt theo cách sử dụng
và chế tạo thì có các loại như Đồ hương (hương xoa trên thân), Thiêu hương
(hương đốt để xông), Huân hương (hương ướp), Mạc hương (hương bột dùng để rắt
nơi đạo tràng và chùa miếu), Hương Thủy (nước hương).
Hương Hỏa: hương và đèn dùng chỉ việc thờ
cúng tổ tiên. Lo việc hương hỏa (từ điển tiếng Việt).
Có nhiều người thắc mắc Tại sao thắp
hương lại dùng những con số lẻ nén nhang 1,3,5,7, 9 v.v...? Thường thì 3 nén
nhang và 2 bàn tay luôn luôn chắp lại và miệng thì lâm râm thầm khấn nguyện? Phải
chăng số lẻ là con số tượng trưng cho sự linh thiêng, tượng trưng cho trời vì
chiếu theo luật cơ -ngẫu của dịch lý thì
số lẻ thuộc Dương, số chẳng thuộc Âm. Dương tượng trưng cho trời, cho sự linh
thiêng, cho vô hình, cho sự trong sạch thanh tịnh, cho sự sinh trưởng phát triển,
cho các cõi trên như Tiên, Thánh, Phật....
Con số 3 liên quan đến biểu tượng “ Lưỡng
long triều nguyệt” nghĩa là đôi rồng chầu vào một mặt nguyệt ta thường được
trang trí trên các bát nhang, lư hương lớn nhỏ ở các nơi thờ tự. Theo dịch lý
đôi rồng là tượng trưng của dương, ứng với hai hào dương trong các quẻ kinh Dịch.
Còn mặt nguyệt là tượng trưng của âm, ứng với hào âm trong các quẻ. Ở đây hào
âm (mặt nguyệt) ở giữa, còn đôi rồng chầu hai phía. Lưỡng Long triều nguyệt
cũng chính là biểu tượng của quẻ Ly.
Không những vậy, con số 3 còn liên quan cả một quan niệm triết học về vũ trụ
của người phương Đông: Thiên, Nhân, Địa (Trời, Nguời, Đất) gọi là tam tài. Người
xưa rất chú trọng về ý nghĩa Tam Tài, cho nên làm bất cứ việc gì họ đều xét nét
tỉ mỉ về Thiên thời, Địa lợi và Nhân hòa nếu thấy đầy đủ ba yếu tố Tam tài thì
mới hành sự và tin tưởng điều ấy sẽ thành
công.
Ngày xưa, Lý Thường Kiệt với lời Tuyên
Ngôn: Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư đã từng “mượn” y linh của đền thờ Trương Hống,
Trương Hát mà khích lệ ba quân tướng sĩ, Chính sử và Dả sử còn ghi lại những hiện “âm phù”, “báo mộng” của
các Thần linh đối với vua chúa đem quân đi chống giặc. Tín ngưỡng niềm tin ấy một
khi được giải tỏa nó đã từng có những tác dụng không nhỏ trong cuộc sống của
con người, nhiều khi có tác dụng làm lay động cả một cộng đồng.
Tuy vậy, nhưng hiện nay có người không
hiểu và cho rằng dâng hương là một trong những hành động mê tín dị đoan, kém
văn minh, thiếu khoa học, bởi vì hiện nay Hương chỉ làm bằng mạc cưa, bằng cây
v.v… rồi tin tưởng đặt trong lư hương và cho là thiêng liêng. Những hành động ấy
đã không lợi ích chi, lại còn nhơ bẩn đến nhà của và hao tốn tiền bạc. Lời này
mới nghe qua có lý, nhưng tìm hiểu cặn kẻ nguồn gốc và ý nghĩa của việc dâng hương thì ta thấy lời
nhận định trên đây hoàn toàn sai lầm.
Chúng ta thử tìm hiểu từ đâu mà có tập tục
dâng hương?
Theo Phan Kế Bính “Việt Nam phong tục” Đốt
hương xuất phát từ Tây Vức. Đốt hương nghĩa là cầu cho quỷ thần giáng cách. Khi
xưa tục Tàu tế tôn Miếu chỉ dùng cỏ tiêu (cỏ thơm) trộm với mỡ đốt cho thơm. Đến
đời vua Vũ đế nhà Hán, Sai tướng sang đánh nước Hồn Gia (xứ Tây Vức) Vua nước ấy
đầu hàng, dâng một thân tượng bằng vàng, Vua Vũ Đế đem tượng về đặc trong cung
Cam Toàn để dâng hương Tế lễ . Kể từ đó Tàu mới có tục đốt hương.
Theo Pháp sư Tịnh Không: Đốt hương?
Hương đại biểu cho hương tín, đây là một tín hiệu mà người xưa đã dùng rất rộng
rãi. Rõ ràng nhất, Nơi Vạn lý trường thành chúng ta thấy cách một đoạn có một
phong hỏa đài, phong hỏa đài là đài truyền tin gấp rút. Phong hỏa đài giống như
cái lò hương. Người ta dùng lửa đốt phân sói, mật độ của khói phân sói không giống
như khói khác, gió không thể thổi tan và duy trì lâu. Ở xa trông thấy chỗ có
khói thì biết rằng chỗ kia có biến cố, đây là cách truyền tin gấp của người
xưa. Việc đốt hương để truyền tin gấp đến chư Phật và Bồ tát khiến cảm ứng đạo
giao cũng xuất phát từ ý niệm truyền tin kiểu này.
Đạo Phật đã được truyền bá vào Việt Nam
từ những thế kỷ trước công nguyên, Văn
hóa Phật giáo hòa quyện cùng văn hóa bản
địa đã tạo ra một Văn hóa tín ngưỡng rất đặc thù. Tập tục dâng hương theo quan
điểm của Phật giáo, Hương thắp lên vừa đạt được ý nguyện tâm linh dâng mùi thơm
và chuyển lời cầu nguyện lên ngôi Tam bảo chứng minh, vừa để biểu hiện chính
tâm hướng tới điều thiện.
Khi đốt hương cúng Phật chúng ta thường
đọc những câu mật ngữ như: Hương Yên khiết thể, thông xuất tam giới, ngũ uẩn
thanh tịnh, tam độc liễu nhiên. Trong
lúc cầm ba nén nhang vị chủ lễ xướng to bài kệ: Thử nhất biện hương, bất tùng
thiên giáng, phi thuộc địa sanh. Lưỡng
nghi vị phán chi tiên, căn nguyên sung tắc tam giới, nhứt khí tài phân chi hậu.
Chi diệp biến mãn thập phương. Siêu nhật nguyệt chi quang hoa, hàm sơn xuyên
chi tú lệ. Tức giới tức định tức huệ. Phi mộc phi hỏa phi yên. Thâu lai tại nhứt
vi trần. Tán khứ phổ châu sa giới. Ngã kim nhiệt hướng lư trung, đoan thân cúng
dường. Thập phương thương trú tam bảo, sát hải vạn linh, tất trượng chơn hương,
đồng quy chơn tế.
(Mông Sơn Khoa Nghi)
Chúng ta lắng lòng khi đọc những câu như
vậy với những phút giây thanh tịnh, sẽ thẩm thấu được sâu sắc ý nghĩa dâng
hương: Hương ở đây chẳng phải là những vật liệu là bằng mạt cưa, chẳng phải là
lửa là khói và Hương cũng chẳng phải là mùi thơm, vật đốt cho thơm khi cúng. Mà
Hương ở đây chính là ngũ phần hương. Giới hương là Định hương, Huệ hương, giải
thoát và giải thoát Tri Kiến hương, dâng lên cúng dường mười phương chư Phật,chư
Hiền Thánh, thể hiện lòng thành kính của chúng ta.
Tích xưa, có một đồng tử sau khi nghe lời
đức Phật dạy thực hành các phương thức quán các pháp hữu vi. Đồng tử bèn lẳng lặng
tu tập. Một hôm nhân thấy quý thầy Tỳ kheo đốt hương trầm thủy mùi hương ngào
ngạt, khói tỏa lan vào mũi. Đồng tử quán mùi thơm: Không màu, không sắc, không
trong không ngoài, không đến không đi, không phải không, không phải có.....nhơn
đó tỏ ngộ lý chơn thường đắc quả A La Hán, Phật liền ấn chứng cho đồng tử với
danh hiệu Hương Nghiêm. Để ca ngợi hạnh quả của Hương Nghiêm, Tổ Từ Vân có làm
bài nguyện Tán hương sau đây:
Tâm nhiên ngũ phận, phổ biến thập phương
Hương yên Đồng tử ngộ chơn thường
Tỉ quán thiệt nan lường
Thoại ái tường quang
Kham hiến Pháp trung Vương
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát.
Nghĩa:
Hương lòng năm món biến khắp mười Phương
Hương Đồng Tử (nhơn khói) tỏ lý chơn thường
Diệu lực của mũi thật không lường
Sáng tốt đẹp lành quý như ngọc Khuê –
Bích
Xin dâng cúng dường đại Pháp Vương.
Cúng kính dâng mây hương khắp (lợi lạc)
Giác Hữu Tình.
Trong Kinh Pháp cú đức Phật dạy: “Không
một hương hoa nào, bay ngược chiều gió thổi, chỉ hương người đức hạnh bay ngược
gió bốn phương”.
Giới Hương: muốn trở thành người đức hạnh
trước hết chúng ta phải giữ giới, Chúng ta phải sống một đời sống trong sạch.
Chúng ta phải làm việc để nuôi sống bản thân bằng một nghề nghiệp chân chánh,
chúng ta phải siêng năng tinh tấn làm lành lành dữ và không bao giờ lừa dối gạt
gẫm thiên hạ bằng những lời vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Làm được
như thế, hương thơm đức hạnh và đạo đức
của chúng ta sẽ tỏa sáng và lan rộng.
Định Hương: Nhờ giữ giới mà tâm chúng ta
được an định nghĩa là trong lúc tu tập để đạt được thanh tịnh hoặc để giải quyết
một vấn đề gì đó trong sự nghiệp ở đời cũng như hạnh nguyện giải thoát trong đạo,
chúng ta phải gom thân khẩu ý chúng ta vào một định hướng của chánh tư duy và
chánh kiến. Hay nói một cách dễ hiểu hơn chúng ta phải sáng suốt, tỉnh táo để
giải quyết mọi vấn đề. Làm được như vậy chúng ta sẽ thành công và đạt được năng suất và hiệu xuất của việc làm, đó là ý
nghĩa của định hương.
Huệ Hương: Là ánh sáng mầu nhiệm của tâm
linh, khi có định kiên cố thì tâm trí sẽ bừng sáng. Hằng ngày định tâm tu tập một
pháp môn, quán chiếu suy xét mọi việc, hiện tượng trên nền tảng chánh pháp như
nhân duyên sanh, vô thường, vô ngã, hoan hỉ, xả ly. Bền bỉ lâu ngày ta sẽ đạt
được tâm thái an nhiên giải thoát. Ứng dụng hữu hiệu chánh pháp làm cho nhận thức
ta sáng tỏ như chánh pháp, không bị tham sân si tập khí phiền nãoquấy nhiễu.
Đây chính là ý nghĩa của Huệ hương.
Giải Thoát hương: giải thoát là một thuật
ngữ của Phật giáo được dịch từ Phạn ngữ là mộc đề, mộc xoa nghĩa là rời bỏ mọi
sự trói buộc mà được tự tại, cởi bỏ sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi
khổ quả của tam giới. Theo từ điển tiếng Việt của Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân
Lãm do viện ngôn ngữ Việt Nam ấn hành định nghĩa từ giải thoát như sau: 1) làm
cho thoát khỏi sự giam hãm, ràng buộc hay bế tắc, giải thoát được những ý nghĩ
nặng nề. 2) thoát khỏi mọi điều đau khổ trên cuộc đời. Muốn được giải thoát ta
phải vâng lời Phật dạy tu tập theo tam vô lậu học. Nhân giới sanh định, nhân định
phát huệ. Bởi vì Giới Định Huệ là 3 môn học chi phối toàn bộ giáo pháp giải
thoát của Đức Phật và luôn luôn đòi hỏi ở năng lực hành trì thâm hậu của tất cả
Phật tử chúng ta. Làm được điều đó tâm hồn chúng ta sẽ phơi phới hạnh phúc,
tràn đầy niềm vui và đem lai sự an lạc giải thoát đến với mọi người. Đây là ý
nghĩa Giải Thoát hương.
Giải Thoát Tri Kiến Hương: Tri kiến là sự
nhận định, nhận thức của con người. Ở đời có những sự kiện xảy ra thường không
đúng sự thật vì chủ quan con người ấn định. Cùng một sự kiện, nhưng quan niệm của
mỗi người nhận định mỗi khác, đó là do chủ quan của con người. Do sự thương
ghét của chúng ta tác động vào sự tin tưởng của chúng ta cho nên khi bị cảm
giác kích động con người sanh ra chủ quan, mà chủ quan theo danh từ Phật học gọi
là tri kiến hay kiến trược. Khi đã bị chủ quan thì không bao giờ có nhận xét
đúng. Bởi vậy, người ta phải tránh chủ quan, bởi vì chủ quan là nguồn gốc lôi
kéo chúng ta đi vào những nhận xét sai lệch. Nên tránh được chủ quan cũng chính
là giải thoát tri kiến thì ta sẽ trở thành một người đức hạnh gọi là giải thoát
tri kiến hương. Ngược lại ta không giải thoát được tri kiến thì chúng ta sẽ gặp
nhiều hối hận sau khi đã thất bại, Nội dung những vần thơ sau đây sẽ minh chứng
cho sự thật hiển nhiên đó:
Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn đến đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phủ phàng.
Vua Lê Thánh Tôn ngẫu hứng sáng tác bài
thơ này khá súc tích với những ý tưởng
thành thật trong một dịp đi ngang qua bờ sông Hoàng Giang thuộc huyện Nam Xương
(tỉnh Hà Nam) trông thấy một ngôi Miếu tỏa khói hương nghi ngút ở đầu gành hỏi
ra mới biết nơi đây đã xảy ra một câu chuyện hết sức thương tâm:
Người chồng họ Trương đi lính thú lâu
ngày. Ở nhà mỗi khi con hỏi “cha đâu” thì vợ lại chỉ bóng mình trên tường và bảo
đứa trẻ rằng đó là cha nó. Khi người chồng trở về, đứa bé không nhận ra cha và
nói rằng cha nó tối mới đến...Nghi vợ ở nhà ngoại tình, người chồng sỉ nhục vợ
và đánh đập, hành hạ vợ một cách tàn nhẫn. Quá uất ức, người vợ nhảy xuống sông
để kết liễu cuộc đời. Ít lâu sau, vào một buổi tối, đứa bé bỗng chỉ vào bóng
trên tường và bảo rằng cha nó đó. Bấy giờ người chồng mới hiểu ra và lập đàn
chay bạt độ giải oan cho vợ.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta thấy rõ
rằng: Vợ chàng Trương bi oan ức, chính vì sự nhận xét chủ quan của chàng
Trương. Nếu chàng Trương bình tĩnh trưng cầu ý kiến của nhiều người tất nhiên sẽ
không chủ quan và khám phá ra sự thật, không còn gây oan uổng cho cái chết của
vợ mình.
Tóm lại, tập tục dâng hương là một đạo
lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng
quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia bảo này được hấp thụ những
tinh hoa của tư tưởng văn hóa Đông phương. Để xác định một lần nữa, dâng hương không phải là một hành động mê tín
dị đoan mà là một truyền thống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc, chúng ta không
thể quên được nguồn gốc văn hóa Đông phương. Đó chính là một trong những biểu tượng văn minh của người Á Đông mà các
nước Tây phương khó có thể tìm được giá trị tâm linh ấy trong cuộc sống xã hội
của họ.
Riêng đối với Phật giáo: Việc dâng hương
cúng dường chư Phật mang nhiều ý nghĩa, từ sự hiển lý, không những làm tăng vẻ
uy nghiêm, phá tiêu chướng khí nơi đạo tràng, mà còn làm cho tỏ ngộ chơn thường,
đạt thể tánh tịnh minh. Người Phật tử chúng ta đã hiểu được ý nghĩa giá trị của
việc dâng hương theo quan niệm Phật giáo, hãy cố gắng giữ gìn truyền thống và
thực hiện cho kỳ được việc dâng hương cho trang nghiêm và chu đáo, vừa lợi ích
cho mình trong việc tu tạo bản thân và giáo đục con em của mình trở thành những
con người tài đức vẹn toàn để cống hiến
và xây dựng một xã hội văn minh và hạnh phúc.
Ngày nay, trong xu thế hướng về nguồn cội
để giữ gìn và phát huy những truyền thống bản sắc văn hóa của dân tộc thì tập tục
dâng hương lại là một trong những đề tài hướng đến Chân Thiện Mỹ để chúng ta
suy gẫm và phát huy nhiều hơn nữa những giá trị văn hóa tâm linh cao quý này.❑
Nguồn Tập San Pháp Luân 19
0 comments:
Đăng nhận xét